Tham
nhũng là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm của
loại tội phạm này thể hiện ở chỗ nó làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến sự
thụ hưởng các quyền và lợi ích của người nghèo, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
sự gia tăng sự bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân đối với
Nhà nước. Do vậy, BLHS năm 1999 đã dành riêng 01 chương quy định về các tội phạm
về chức vụ trong đó 01 mục (mục A) với 07 điều luật quy định về các tội phạm
tham nhũng.Tuy nhiên đến năm 2015, BLHS mới ra đời
đã bổ sung, sửa đổi một số chính sách đối với loại tội phạm này.
-
Theo khoản 2 Điều 1 Luât phòng chống
tham nhũng của Việt Nam năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”
Theo Điều 3 Luật phòng chống tham nhũng
năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) hành vi tham nhũng bao gồm 12 dạng: Tham ô
tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong
khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đến người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ,
môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết
công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì
vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi, cản trở, can thiệp
trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án vì vụ lợi.
* Những
điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 quy định về tội phạm tham nhũng
1. 1. Mở
rộng phạm vi các tội tham nhũng trong khu vực tư
BLHS
năm 2015 đã mở rộng chủ thể thực hiện tội phạm tham nhũng không chỉ trong khu vực
nhà nước, những người có chức vụ trong khi thực hiện “công vụ” (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống các
cơ quan nhà nước) mà còn mở rộng sang khu vực ngoài nhà nước là những người có
chức vụ trong khi thực hiện “ nhiệm vụ”
(tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước). Đồng thời BLHS năm 2015 đã quy
định tội phạm về chức vụ ở khu vực ngoài nhà nước chỉ áp dụng đối với 4 tội
danh: Tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội đưa hối lộ.
Trong đó, tội danh tham nhũng có 2 tội là tội tham ô tài sản “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại
Điều này” (khoản 6 Điều 353) và tội nhận hối lộ “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà
nước mà nhân hối lộ thì bị xử lý theo quy định tại Điều này” (khoản 6 Điều
354).
Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, theo quy định tại khoản 3 Điều 278 BLHS năm 1999
không áp dụng thời hiệu đối với tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại
khoản 3, khoản 4 Điều 353 BLHS năm 2015; tương tự không áp dụng thời hiệu đối với
tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 354. Đối với
tội phạm này, bất kỳ thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể xử lý hình
sự, kể cả khi người phạm tội đã về hưu, nghỉ việc.
1. 2. Mở
rộng nội hàm “của hối lộ” tại các điều khoản liên quan
Theo quy định của BLHS năm 1999, để
có thể xử lý được người phạm tội thì "của hối lộ" trong
các cấu thành tội phạm liên quan như đưa hối lộ, nhận hối lộ,...
phải là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá được
bằng tiền thì BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm dấu hiệu định tội đó là “lợi
ích phi vật chất” vào trong cấu thành của các tội phạm: tội nhận hối
lộ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi, tội đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội lợi
dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.
Như vậy, Điều luật không chỉ bó hẹp lợi
ích vật chất mà mở rộng việc chiếm đoạt rộng hơn "bất kỳ lợi ích
nào", tức là bao gồm cả lợi ích vật chất, lợi ích phi vật chất. Việc mở rộng
phạm vi của việc chiếm đoạt là phù hợp với tình hình phạm tội về hối lộ hiện
nay tại Việt Nam, lợi ích không chỉ còn là lợi ích vật chất mà của hối lộ có thể
là phi vật chất (chẳng hạn lợi ích tinh thần).
2. 3. Sửa
đổi, bổ sung cấu thành cơ bản của tội nhận hối lộ
Khoản 2 Điều 15 UNCAC quy định yếu tố
khách quan bắt buộc trong cấu thành tội nhận hối lộ là lợi ích không chính
đáng mà người thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhận được có thể dành cho
chính bản thân công chức hoặc cho người khác, ví dụ, họ hàng người thân của công
chức đó, hoặc có thể dành cho một thực thể khác. Để đáp ứng yêu cầu của
Công ước, khoản 1 Điều 354 (tội nhận hối lộ) sửa đổi, bổ sung theo
hướng quy định rõ yêu cầu này, cụ thể là:
"Người nào lợi dụng chức vụ, quyền
hạn... nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản
thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác..."
Đồng thời, để bảo đảm sự thống
nhất về kỹ thuật lập pháp với quy định về tội nhận hối lộ, BLHS năm
2015 quy định một cách cụ thể hơn về hành vi đưa hối lộ như sau: “Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã
đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ
chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc
không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ”.
3. 4. Tăng
mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tham ô, chiếm đoạt của hối lộ
Để bảo đảm sự phù hợp với thực
tiễn xử lý tội tham ô tài sản, nhận hối lộ; phù hợp với điều kiện phát
triển của nền kinh tế, đồng thời nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình
sự, bảo đảm mức độ tương xứng giữa hình phạt với tính chất, mức
độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội khi căn cứ vào giá trị tiền,
tài sản tham ô, của nhận hối lộ hoặc thu lời bất chính, BLHS năm 2015
đã nâng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tại các điều
khoản có liên quan.
Cụ thể, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung mức định lượng giá trị tiền, tài sản về đối với nhóm tội liên
quan đến hối lộ: nâng giá trị tiền, tài sản là căn cứ truy cứu
trách nhiệm hình sự quy định tại khung 1 các Điều 345, Điều 364, Điều
365 từ “hai triệu đồng đến dưới
mười triệu đồng” theo quy định tại các điều khoản tương ứng của
BLHS năm 1999 lên “từ hai triệu đồng
đến dưới một trăm triệu đồng”; nâng giá trị tiền, tài sản quy
định tại khoản 2 các Điều nói trên “từ
mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng” theo quy định của
BLHS năm 1999 lên “từ một trăm triệu
đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”; nâng giá trị tiền, tài sản
quy định tại khoản 3 các Điều nói trên từ “năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng” theo quy
định của BLHS năm 1999 lên “từ năm
trăm triệu đồng đến một tỉ đồng”…
4. 5. Bổ
sung cấu thành tăng nặng định khung hình phạt đối với một số tội và bổ sung
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
tham nhũng
Giống như hầu hết các quy định của
BLHS năm 1999 về các nhóm tội phạm cụ thể khác, các quy định về tội
phạm chức vụ còn nhiều hạn chế, dấu hiệu định tội, định khung của nhiều
tội chưa rõ ràng cụ thể, nhiều tình tiết có tính chất “định tính”, gây khó khăn cho việc áp dụng để xử lý tội
phạm. Hơn nữa, một số quy định về tội phạm chức vụ còn quá đơn giản,
chưa dự liệu được hết các trường hợp phạm tội có tính nghiêm trọng
hơn, do đó, chỉ thiết kế một hoặc hai khung hình phạt. Để bảo đảm tính
minh bạch của các quy định, bảo đảm cá thể hóa trách nhiệm hình sự
cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng
thống nhất áp dụng, nhà làm luật 2015 đã bỏ tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng
khác, hậu quả rất nghiêm trọng khác , đặc biệt nghiêm trọng khác thay bằng tình
tiết tăng nặng định khung cụ thể hơn.
5. 6. Bổ
sung một số chính sách mới liên quan đến việc xử lý tội phạm tham nhũng
Một là,
nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế, góp phần thực hiện
chủ trương của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị là giảm
hình phạt tử hình, đồng thời khuyến khích người phạm tội tham nhũng khắc phục hậu
quả, nộp lại tiền cho Nhà nước và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền phát hiện,
điều tra, xử lý tội phạm để hưởng chính sách khoan hồng. Điểm c khoản 3 Điều 40
BLHS năm 2015 quy định “người bị kết án tử
hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi kết án đã chủ động nộp lại
ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan
chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”
thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án và chuyển hình phạt tử
hình thành tù chung thân.
Hai là,
Điều 28 BLHS năm 2015 bổ sung trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội tham ô tài sản đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản
3 và khoản 4 Điều 353, tội nhận hối lộ đặc biệt nghiệm trọng quy định tại khoản
3 và khoản 4 Điều 354 góp phần tăng cường hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong
việc xử lý đến cùng tội phạm tham nhũng. Đối với các trường hợp này, bất
kể thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể xử lý.
Công ty Luật TNHH Hồng Thái và đồng nghiệp xin hân hạnh được mang đến cho quý khách hàng những dịch vụ tư vấn tốt nhất về các lĩnh vực như:
+ Tư vấn pháp luật dân sự, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch dân sự;
+Tư vấn đầu tư, khắc dấu, cấp giấy phép kinh doanh, tư vấn sở hữu trí tuệ, in hóa đơn;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch và nghĩa vụ dân sự như: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, bảo lãnh…;
+ Tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng mua bán, tặng, cho, vay mượn tài sản;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng thuê, thuê khoán tài sản và các quy định pháp luật liên quan;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp đồng gia công, hợp đồng bảo hiểm và các quy định pháp luật liên quan;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền và các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề ủy quyền.
+ Tư vấn, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến thừa kế như: tư vấn, hỗ trợ pháp lý về thừa kế cho người để lại thừa kế, người thừa kế; soạn thảo di chúc và các văn bản khác; tư vấn, hỗ trợ pháp lý các vấn đề thừa kế khác có liên quan;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý liên quan đến các quan hệ dân sự có yêu tố nước ngoài.
Xin vui lòng liên hệ: 097 693 3335 để công ty chúng tôi có thể tư vấn cho quý khách.
Trân trọng!
(K.LINH)