Tố cáo có từ xa xưa,
gắn liền với sự phát triển của Nhà nước, tố cáo được quan niệm khác nhau tùy
theo mức độ, phạm vi, đối tượng tố cáo. Về phương diện xã hội, tố cáo thể hiện
sự bất bình của người này đối với hành vi của người khác và báo cho cơ quan, tổ
chức và người khác biết để có thái độ, biện pháp giải quyết. Về phương diện lý
luận – chính trị, tố cáo là quyền của công dân, là một hình thức biểu hiện của
xã hội dân chủ thông qua đó để công dân giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước
và bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
Theo từ điển tiếng Việt thì “Tố cáo là báo cho mọi người hoặc cơ quan có
thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó…vạch trần hành động xấu
xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn” .
Theo quy định của khoản 1 Điều 2 Luật Tố
cáo 2011 thì: “Tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Điều
30 Hiến pháp 2013 quy định “nghiêm cấm việc
trả thù người khiếu nại, tố cáo”. Thể chế hóa tinh thần này của Hiến pháp,
Luật Tố cáo 2011 đã dành hẳn một chương riêng quy định về bảo vệ người tố cáo
(Chương V từ Điều 34 đến Điều 40). Trong đó Điều 34 quy định việc bảo vệ người
tố cáo được thực hiện tại tất cả những nơi có thể ảnh hưởng đến người tố cáo
như nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản của người cần được bảo
vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Đối tượng bảo vệ
không chỉ là người tố cáo mà còn bao gồm cả người than thích của người tố cáo
như vợ hoặc chồng, bố mẹ, con cái, anh chị em ruột. Thời hạn bảo vệ do cơ quan
có thẩm quyền quyết định tùy thuộc vào tình hình thực tế của từng vụ việc, mức
độ, tính chất của các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng
cần được bảo vệ. Luật xác định trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo
thuộc về người giải quyết tố cáo; đồng thời, cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ
của người tố cáo được bảo vệ và các nội dung cơ bản về bảo vệ người tố cáo như
bảo vệ bí mật thông tin; bảo vệ tại nơi công tác, nơi làm việc, nơi cư trú; bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo.
Tuy nhiên, những biện pháp bảo vệ người tố cáo
trong Luật tố cáo 2011 mới chỉ dừng lại ở việc đề ra các nguyên tắc chung, chưa
xác định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong
việc áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo. Nghị định số 76/2012 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo đã cụ thể hóa hơn về
các biện pháp bảo vệ người tố cáo cũng như trách nhiệm của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo; bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân
thân khác của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo. Trách nhiệm
chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc về cơ quan, người có thẩm
quyền giải quyết tố cáo. Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm bảo vệ người tố
cáo, không phụ thuộc vào người tố cáo có yêu cầu hay không. Theo đó, người tố
cáo được bảo vệ về:
a, Bảo vệ về bí mật thông tin cá nhân
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
khi tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo, khai thác, sử dụng thông tin, tài liệu
do người tố cáo cung cấp có trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích
và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo; đồng thời phải áp dụng biện
pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có
biện pháp cần thiết để giữ bí mật thông tin và bảo vệ cho người tố cáo (Điều 36
Luật Tố cáo 2011). Đồng thời, khoản 3 Điều 8 của Luật Tố cáo cũng quy định
nghiêm cấm tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông
tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo. Theo Điều 12 Nghị định
76/2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo quy định trong
trường hợp cần thiết có thể lược bỏ họ tên, địa chỉ, bút tích, các thông tin cá
nhân khác của người tố cáo ra khỏi đơn tố cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm
theo, đồng thời lưu trữ và quản lý thông tin về người tố cáo theo chế độ thông
tin mật. Trong quá trình giải quyết tố cáo, nếu có yêu cầu làm việc trực tiếp với
người tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, người giải quyết tố cáo
phải bố trí thời gian, địa điểm và lựa chọn phương thức làm việc phù hợp để bảo
vệ bí mật thông tin cho người tố cáo.
Trường hợp phát hiện người không có thẩm
quyền có hành vi thu thập thông tin về người tố cáo, người giải quyết tố cáo có
trách nhiệm áp dụng biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền
áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc xử lý đối với người có hành vi vi phạm.
b,Về
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền
nhân thân khác của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo
Khi người giải quyết tố cáo nhận được
thông tin người tố cáo bị đe doạ, trả thù, trù dập thì có trách nhiệm chỉ đạo
hoặc phối hợp với cơ quan công an hoặc cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp
kịp thời ngăn chặn, bảo vệ người tố cáo và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý
theo quy định pháp luật đối với người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người
tố cáo . Trường hợp xác định hành vi xâm hại người được bảo vệ đang diễn ra hoặc
có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải chỉ đạo hoặc phối hợp với
cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác có thẩm quyền để áp dụng ngay các biện pháp bảo vệ sau:
- Bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ
để bảo vệ an toàn cho người được bảo vệ tại nơi cần thiết;
- Tạm thời di chuyển người được bảo vệ đến
nơi an toàn (khoản 3 Điều 14 Nghị định 76/2012).
Khi đã ngăn chặn được hành vi xâm hại đến
tính mạng, sức khỏe của người được bảo vệ, tùy theo từng trường hợp cụ thể, người
có thẩm quyền giải quyết tố cáo chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi người
được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp quy định tại Điều 14 Nghị định 76/2012.
Căn cứ vào tính chất, mức độ và khả
năng xảy ra trên thực tế của hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người
được bảo vệ, cơ quan ra quyết định bảo vệ xem xét, áp dụng các biện pháp được
quy định tại Khoản 3 Điều 39 của Luật tố cáo.
Trong quá trình giải quyết tố cáo nếu
xét thấy có nguy cơ xâm hại đến tài sản của người được bảo vệ, người giải quyết
tố cáo có trách nhiệm áp dụng theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền
áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người được bảo vệ về tài sản biết.
Trường
hợp xác định hành vi xâm hại tài sản đang xảy ra hoặc có thể xảy ra ngay tức khắc,
tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại, người có thẩm quyền
giải quyết tố cáo chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi có tài sản hoặc cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ. Khi đã
ngăn chặn được hành vi xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo theo thẩm
quyền hoặc chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi có tài sản hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ sau đây:
- Yêu cầu người có hành vi xâm hại đến
tài sản của người được bảo vệ chấm dứt hành vi vi phạm;
- Xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị người
có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Khi có căn cứ cho rằng, việc tố cáo có
thể xâm hại đến uy tín, danh dự, nhân phẩm hoặc các quyền nhân thân khác của
mình, người thân thích của mình, người tố cáo có quyền yêu cầu người giải quyết
tố cáo, cơ quan công an nơi người tố cáo, người thân thích của người tố cáo cư
trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng
biện pháp bảo vệ.
c,
Về bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của
người tố cáo
Khi có căn cứ cho rằng việc tố cáo của
mình bị người có thẩm quyền quản lý, sử dụng có hành vi trù dập, phân biệt đối
xử hoặc thuyên chuyển công tác dẫn đến giảm thu nhập, gây thiệt hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức có
quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo thực hiện các biện pháp bảo vệ cần thiết.
Yêu cầu bảo vệ phải bằng văn bản.
Nghị định 76/2012 quy định chậm nhất là
05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu bảo vệ, người giải quyết
tố cáo có trách nhiệm kiểm tra, xác minh. Thời hạn kiểm tra, xác minh là 05
ngày làm việc. Trường hợp có căn cứ cho rằng yêu cầu của người tố cáo là chính
đáng thì chậm nhất là 05 ngày làm việc, người giải quyết tố cáo phải áp dụng
các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu người có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp bảo vệ được quy định tại Khoản 4 Điều 37 của Luật tố cáo và các biện pháp
sau đây:
- Thuyên
chuyển công tác của người được bảo vệ sang cơ quan, tổ chức, đơn vị khác nếu có
sự đồng ý của họ để tránh bị trù dập, phân biệt đối xử;
- Ra quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc
kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với người
có hành vi trả thù, trù dập, đe dọa làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người được bảo vệ.
Đối với người tố cáo, người thân thích
của người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động mà không phải là viên
chức, Nghị định cũng quy định các biện pháp bảo vệ có tính chất tương tự.
d,Về bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm bảo đảm để người tố cáo không bị
phân biệt đối xử trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân tại nơi
cư trú; không bị phân biệt đối xử, trả thù, trù dập, đe dọa, làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo (khoản 1, 2 Điều 38). Khi nhận được
yêu cầu của người giải quyết tố cáo về việc áp dụng biện pháp bảo vệ đối với
người tố cáo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có trách nhiệm kiểm tra, xác minh, quyết
định áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để bảo vệ người tố cáo theo quy định
tại Điều 38 Luật Tố cáo 2011.
Công ty Luật TNHH Hồng Thái và đồng nghiệp xin hân hạnh được mang đến cho quý khách hàng những dịch vụ tư vấn pháp luật tốt nhất về các lĩnh vực như:
+ Tư vấn pháp luật dân sự, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch dân sự;
+Tư vấn đầu tư, khắc dấu, cấp giấy phép kinh doanh, tư vấn sở hữu trí tuệ, in hóa đơn;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch và nghĩa vụ dân sự như: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, bảo lãnh…;
+ Tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng mua bán, tặng, cho, vay mượn tài sản;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng thuê, thuê khoán tài sản và các quy định pháp luật liên quan;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp đồng gia công, hợp đồng bảo hiểm và các quy định pháp luật liên quan;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền và các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề ủy quyền.
+ Tư vấn, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến thừa kế như: tư vấn, hỗ trợ pháp lý về thừa kế cho người để lại thừa kế, người thừa kế; soạn thảo di chúc và các văn bản khác; tư vấn, hỗ trợ pháp lý các vấn đề thừa kế khác có liên quan;
+ Tư vấn, hỗ trợ pháp lý liên quan đến các quan hệ dân sự có yêu tố nước ngoài.
Xin vui lòng liên hệ: 097 693 3335 để công ty chúng tôi có thể tư vấn cho quý khách.
Trân trọng!
(k.linh)