Tình huống về xử lí tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
(Số lần đọc 363)
Tình huống: A (28 tuổi) đã gọi điện rủ B (15 tuổi) cùng thực hiện hành vi bắt cóc em họ của A là C (5 tuổi) để đòi bố mẹ của C phải nộp 50 triệu đồng tiền chuộc. Hành vi của A và B bị xử lí về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 134 BLHS.
Phân loại tội phạm là một nội dung quan trọng liên quan đến chế định tội phạm có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn áp dụng nhiều quy định của BLHS. Một nhà khoa học đã bình luận: “ Phân loại tội phạm đúng không chỉ là một trong những căn cứ quan trọng để phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, cũng như áp dụng chính xác một loạt các chế định khác của phần chung luật hình sự (như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt , án treo, xác định tái phạm…), mà còn tạo điều kiện thuân lợi cho việc xây dựng một cá chính xác và khoa học các chế tài pháp lí hình sự trong phần riêng (Phần các tội phạm) của nó”( ). Trong khoa học luật hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau về phân loại tội phạm, dựa trên những nội dung và tiêu chí khác nhau.Theo quan điểm thể hiện trong bộ luật hình sự Việt Nam, các nhà làm luật phân tội phạm thành bốn nhóm tội phạm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Theo định nghĩa này, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi cả dấu hiệu về nội dung chính trị, xã hội và cả dấu hiệu về hậu quả pháp lí. Áp dụng và trường hợp thực tế theo tình huống mà đề bài ra: Muốn phân loại một tội phạm cụ thể ta phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm mà A và B thực hiện. Cụ thể, A và B bị xử lí về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 2 Điều 134 BLHS được quy định như sau: 1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Đối với trẻ em; e) Đối với nhiều người; g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; h) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; i) Gây hậu quả nghiêm trọng. Để xác định hành vi của A và B thuộc loại tội phạm nào ta phải căn cứ vào Nội dung chính trị - xã hội chính là tính nguy hiểm mà hành vi phạm tội gây ra cho xã hội. Như vậy theo khoản 2 Điều 134 BLHS thì hành vi của A và B là hành vi phạm tội thuộc trường hợp tại điểm “đ: đối với trẻ em” và điểm “h:chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”. Theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ , chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em. A đã rủ B bắt cóc C (5 tuổi) như vậy có thể khẳng định tội phạm A, B thực thiện thuộc trường hợp điểm đ điều 134. Phạm tội đối với trẻ em được coi là tình tiết tăng nặng của Điều 134 không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp kế tụng sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ. Phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhận thức hoặc buộc họ phải nhận thước đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em, mà chỉ cần xác định người bị hại là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em. Hơn nữa C lại còn là em họ của A, với mối quan hệ ruột thịt như thế thì đúng ra A phải chăm sóc, bảo vệ C nhưng chỉ vì món lợi 50 triệu đồng mà bắt cóc C để đòi tiền chuộc. Hành vi này có thể để lại hậu quả rất nghiêm trọng cho tâm lí và sự phát triển của C sau này. A và B có ý định chiếm đoạt 50 triệu đồng từ bố mẹ C như vậy đã phạm tội thuộc điểm đ điều 134 BLHS. Từ đây có thể thấy hành vi phạm tội của A và B có tính gây nguy hại rất lớn cho xã hội. Dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí là tính phải chịu hình phạt của người phạm tội dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt mà cấu thành tội phạm đó đặt ra. Mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản 2 Điều 134 BLHS là đến mười hai năm. Từ những phân tích nói trên kết hợp với khoản 3 điều 8 BLHS thì hành vi phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.  Công ty Luật TNHH Hồng Thái và đồng nghiệp xin hân hạnh được mang đến cho quý khách hàng những dịch vụ tư vấn tốt nhất về các lĩnh vực như: + Tư vấn pháp luật dân sự, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch dân sự; + Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch và nghĩa vụ dân sự như: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, bảo lãnh…; + Tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng mua bán, tặng, cho, vay mượn tài sản; + Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng thuê, thuê khoán tài sản và các quy định pháp luật liên quan; + Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp đồng gia công, hợp đồng bảo hiểm và các quy định pháp luật liên quan; + Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền và các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề ủy quyền. + Tư vấn, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến thừa kế như: tư vấn, hỗ trợ pháp lý về thừa kế cho người để lại thừa kế, người thừa kế; soạn thảo di chúc và các văn bản khác; tư vấn, hỗ trợ pháp lý các vấn đề thừa kế khác có liên quan; + Tư vấn, hỗ trợ pháp lý liên quan đến các quan hệ dân sự có yêu tố nước ngoài. Xin vui lòng liên hệ: 097 693 3335 để công ty chúng tôi có thể tư vấn cho quý khách.
Trân trọng! *M.Ng*
Mời bạn đánh giá bài viết này!
|
Đặt câu hỏi
|
Báo giá vụ việc
|
Đặt lịch hẹn
|
HƯỚNG DẪN THANH LÝ TÀI SẢN KHI GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
09:08 | 30/07/2025
Khi
tiến hành giải thể, doanh nghiệp cần thực hiện thủ tục thanh lý tài sản. Đây là
bước quan trọng nhằm xác định và xử lý toàn bộ giá trị tài sản còn lại, đảm bảo
việc thanh toán nghĩa vụ tài chính và phân chia tài sản đúng quy định. Theo
Luật Doanh nghiệp hiện hành và các quy định pháp luật...
|
Người đứng tên hộ có bị truy cứu trách nhiệm pháp lý khi công ty vi phạm pháp luật không?
09:00 | 29/07/2025
Trong những năm gần đây, tình trạng
cá nhân “đứng tên hộ” trong hồ sơ thành lập doanh nghiệp ngày càng phổ biến tại
Việt Nam. Đây là hiện tượng một người đứng tên trên giấy phép kinh doanh, góp vốn,
thậm chí đảm nhận vị trí giám đốc, người đại diện theo pháp luật… nhưng thực tế
lại không sở hữu...
|
Các khoản chi được trừ và không được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp từ ngày 1/10/2025
03:17 | 25/07/2025
Ngày 14/6/2025, Quốc hội thông qua Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp 2025 (Luật số 67/2025/QH15), trong đó có quy định
mới về những khoản chi được trừ khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp từ ngày
1/10/2025. Để giúp các doanh nghiệp tránh gặp phải những sai sót trong quá
trình tính thuế, bài...
|
Phương pháp tính thuế thu nhập doanh nghiệp từ ngày 1/10/2025 ra sao?
04:56 | 23/07/2025
Quy định mới về phương pháp tính thuế thu nhập doanh nghiệp trong Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp 2025
|
Cổ đông công ty cổ phần có được rút vốn không?
10:37 | 18/07/2025
Căn
cứ quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật
số 76/2025/QH15 (có hiệu lực từ 01/7/2025), chúng tôi xin cung cấp
thông tin pháp lý cụ thể như sau:
|
Từ 1/7/2025 các doanh nghiệp phải bắt buộc tiến hành định danh tổ chức để có thể truy cập thuế điện tử?
10:18 | 18/07/2025
Khoản
4 Điều 40 Nghị định 69/2024/NĐ-CP quy định như sau:
“ Tài khoản được tạo lập bởi Cổng dịch vụ công quốc gia,
hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh cấp cho cơ
quan, tổ chức được sử dụng đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2025.”
|
Thay đổi cổ đông của công ty cổ phần cần những thủ tục gì?
10:21 | 17/07/2025
Trong suốt quá trình hoạt động, việc thay đổi cổ đông là một hiện
tượng phổ biến tại các công ty cổ phần, phản ánh sự linh hoạt trong chuyển nhượng
vốn, tái cấu trúc hoặc mở rộng quy mô đầu tư. Tuy nhiên, dù là thay đổi do chuyển
nhượng cổ phần, chia tách, hợp nhất hay lý do cá nhân của cổ...
|
Thủ tục rút vốn tại Công ty TNHH 2 thành viên trở lên
03:30 | 16/07/2025
Theo quy định hiện hành ( Luật Doanh nghiệp 2020, sửa đổi 2025 ), thành viên Công ty TNHH hai thành viên trở
lên không được tự ý rút vốn đã góp , trừ các trường hợp cụ thể sau:
|
Từ 01/7/2025, doanh nghiệp phải đăng ký lại con dấu do sáp nhập địa giới hành chính
03:18 | 16/07/2025
Từ ngày 01/7/2025, nhiều
doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện hoạt động theo luật chuyên ngành sẽ
phải tiến hành đăng ký lại con dấu. Lý do xuất phát từ việc sáp nhập địa giới
hành chính cấp huyện, xã theo Nghị quyết của Quốc hội và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Vậy đối tượng nào phải...
|
Doanh nghiệp có được tự do mua bán? Cập nhật quy định mới nhất từ 01/7/2025
02:54 | 16/07/2025
Không ít người cho rằng mọi
doanh nghiệp đều có thể được mua bán như một tài sản thông thường. Tuy nhiên,
theo quy định tại Luật Doanh nghiệp hiện
hành , không phải loại hình doanh nghiệp nào cũng được phép bán toàn bộ
công ty của mình. Chỉ doanh nghiệp tư
nhân mới có quyền bán toàn bộ...
|
|
Tìm kiếm
Thống kê truy cập
|
Đang online : 175
Đã truy cập : 3,619,783
|
|