TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 02/GĐ-TANDTC
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 09 năm 2018
|
GIẢI ĐÁP
MỘT SỐ VẤN
ĐỀ VỀ TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Kính gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
|
Qua thực tiễn công tác xét xử, Tòa án nhân
dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc trong giải
quyết các vụ án hành chính. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như
sau:
1. Trong vụ án hành chính, cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh
tra Sở Tài nguyên và Môi trường có được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không?
Theo quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 4 của Luật Thanh tra thì Thanh tra sở là một trong những cơ
quan thanh tra nhà nước.
Theo quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì “cán bộ, công chức trong
các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan,
hạ sĩ quan trong ngành Công an” không được làm người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự
trong vụ án hành chính.
Do đó, theo các quy định nêu trên thì cán
bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường không
được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh trong vụ án hành chính.
2. Phiếu chuyển thông tin để xác định
nghĩa vụ tài chính về đất đai do Văn phòng đăng ký đất đai lập có phải là quyết định hành chính không? Có được
coi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?
Theo quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì quyết định hành chính là
đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được hiểu như sau:
“1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà
nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể.
2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết
định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi,
hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Theo quy định tại khoản 4
Điều 10 và khoản 1 Điều 12 của Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày
22-6-2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì
Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm lập Phiếu chuyển thông tin để xác định
nghĩa vụ tài chính về đất đai theo Mẫu số 01/LCHS Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này để chuyển cho
cơ quan thuế ra thông báo nộp tiền sử dụng đất. Cơ quan thuế có trách nhiệm
tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ. Trường hợp phát hiện hồ sơ có sai sót hoặc thiếu căn
cứ để xác định nghĩa vụ tài chính thì cơ quan thuế đề nghị Văn phòng đăng ký
đất đai xác định hoặc bổ sung thông tin.
Căn cứ vào các quy định nêu trên thì Phiếu
chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai là văn bản hành
chính, nhưng chưa làm phát sinh nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài
sản gắn liền với đất nên không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
3. Ban đầu người khởi kiện yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính; sau đó, người khởi kiện
bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là đối tượng khởi kiện ban đầu. Tòa án xử lý trường hợp này
như thế nào?
Trong trường hợp này, Tòa án phải hướng
dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính để khởi kiện vụ án dân sự.
Trường hợp đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính, đồng thời có đơn khởi
kiện vụ án dân sự tranh chấp về đất đai thì Tòa án căn cứ vào điểm
c khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét,
thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục chung. Trường
hợp đương sự không rút đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào điểm
d khoản 1 Điều 141 của Luật Tố tụng hành chính tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả giải quyết
vụ án dân sự. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết tranh chấp đất đai và
giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến nhau và
có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khoản 1 Điều 34 của Luật Tố tụng hành chính và Điều
34 của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết đồng thời hai yêu cầu của đương sự trong cùng một vụ án theo thủ
tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
4. Trường hợp đơn khởi kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải
quyết tranh chấp đất đai, nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Trường hợp này thụ lý vụ án dân sự hay vụ
án hành chính để xem xét giải quyết?
Trường hợp người khởi kiện chỉ yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án phải tôn trọng “Quyền quyết định
và tự định đoạt của người khởi kiện” theo quy định tại Điều 8
của Luật Tố tụng hành chính. Theo đó thì Tòa án phải xem xét thụ lý, giải
quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
5. Trong quá trình xét xử vụ án hành
chính, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, Kiểm sát viên
không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử
vẫn tiến hành xét xử hay tạm ngừng phiên tòa?
Theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính thì trong quá trình xét xử,
Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa khi có căn cứ: "Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất
khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể
tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ
trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng”.
Như vậy, trong quá trình xét xử, do tình
trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà Kiểm
sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự
khuyết thì Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm a khoản 1
Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính để xem xét, quyết định tạm ngừng phiên
tòa.
6. Trong vụ án hành chính, người bị kiện
là Ủy ban nhân dân huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nên người đại diện
theo pháp luật của người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trường hợp
này Tòa án có thể nhập chung hai chủ thể bị kiện thành một chủ thể được không?
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính
thì mỗi chủ thể có quyền, nghĩa vụ tố tụng khác nhau và có trách nhiệm riêng
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình. Do đó, trường hợp
này không thể xác định chung tư cách tham gia tố tụng, mà vẫn phải xác định
riêng tư cách tham tố tụng của người bị kiện là của Ủy ban nhân dân huyện và
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.
7. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử ban hành trong
tố tụng hành chính như thế nào?
Theo quy định tại Điều 77
của Luật Tố tụng hành chính về giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì: “3. Việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị tại
phiên tòa thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu
nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng”.
Theo quy định nêu trên thì trường hợp
khiếu nại việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội
đồng xét xử sơ thẩm ban hành tại phiên tòa sơ thẩm thì thuộc thẩm quyền giải
quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm.
Trường hợp khiếu nại việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm thì
việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Quyết định giải
quyết khiếu nại của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng.
8. Người khởi kiện yêu cầu hủy quyết định
thu hồi Giấy chứng nhận thương binh. Khi họ khởi kiện thì có phải thông báo
quyền của họ được trợ giúp pháp lý như thương binh không? Có được miễn tạm ứng
án phí theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án?
Theo quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng thì thương
binh là người có công với cách mạng.
Theo quy định tại Điều 17
của Luật Trợ giúp pháp lý, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
thì người có công với cách mạng thuộc trường hợp được trợ giúp pháp lý khi tham
gia tố tụng và được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án.
Tuy nhiên, tại thời điểm họ nộp đơn khởi
kiện thì Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh đang có hiệu lực, nên
người khởi kiện không được quyền trợ giúp pháp lý và miễn nộp tiền tạm ứng án
phí theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp Tòa án hủy quyết định thu hồi
Giấy chứng nhận thương binh thì việc xử lý tiền tạm ứng án phí được Hội đồng
xét xử nhận định và quyết định hoàn trả lại cho người khởi kiện trong bản án.
9. Một người khởi kiện nhiều quyết định
hành chính trong cùng một vụ án thì tính án phí sơ thẩm như thế nào?
Pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án chỉ quy
định án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành Chính phúc thẩm mà không quy định án phí theo từng yêu cầu
khởi kiện. Do đó, nếu người khởi kiện yêu cầu hủy nhiều quyết định hành chính
có liên quan đến nhau thì Tòa án giải quyết các yêu cầu này trong cùng một vụ
án. Trong trường hợp này, án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính phúc thẩm được xác định là 300.000 đồng. Nếu người
khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định hành chính độc lập với nhau thì Tòa án xem
xét, thụ lý giải quyết bằng các vụ án hành chính khác nhau. Việc tính án phí
hành chính thực hiện theo quy định chung.
10. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định nếu các bên đương sự đối
thoại thành về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa thì họ chỉ phải
chịu 50% mức án phí hành chính sơ thẩm. Vậy, tính án phí trong trường hợp này cụ thể
như thế nào?
Theo quy định tại khoản 4
Điều 32 của Nghị quyết số 326 thì: “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến
hành đối thoại nếu các bên đương sự đối thoại thành về việc giải quyết vụ án
thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí hành chính sơ thẩm”.
Theo quy định tại mục III Phần A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án
ban hành kèm theo Nghị quyết số 326 thì án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng.
Như vậy, theo các quy định này thì đối với
trường hợp đối thoại thành, đình chỉ vụ án thì các bên phải chịu 150.000 đồng
án phí hành chính sơ thẩm.
11. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã không
tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai, nên các bên tranh chấp không
thực hiện được việc khởi kiện tại Tòa án. Vậy, hành vi không tổ chức hòa giải cơ
sở đối với tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có phải là đối tượng
khởi kiện trong vụ án hành chính không?
Theo quy định tại khoản 3
Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có
trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình. Thủ tục
hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể
từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
Theo quy định tại khoản 3
và khoản 4 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì hành vi hành chính là
hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành
chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định
của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
Theo các quy định nêu trên thì hành vi
không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
12. Việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính được thực
hiện như thế nào?
Trong vụ án hành chính, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản thì việc
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được
thực hiện tương tự như việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người khởi kiện,
người bị kiện theo quy định tại Điều 59 của Luật Tố tụng hành
chính.
13. Trong vụ án hành chính, nếu một trong
các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại hay
tiếp tục các thủ tục khác để rút ngắn thời gian giải quyết vụ án?
Trong vụ án hành chính mà chỉ một trong
các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại, còn các đương sự khác không có ý kiến hoặc có yêu cầu đối
thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại theo thủ tục chung. Trường hợp, đương
sự đã được Tòa án triệu tập
hợp lệ lần thứ hai hoặc không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính
đáng thì thuộc trường hợp không tiến hành đối thoại được; trường hợp này Biên
bản đối thoại được lập theo quy định tại khoản 1 Điều 139 của
Luật Tố tụng hành chính.
14. Đối với những vụ án đã có quyết định
đưa vụ án ra xét xử trước ngày 01-7-2016, nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử,
có phải quay trở lại thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm
2015?
Theo quy định tại khoản 1
Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi
hành Luật Tố tụng hành chính thì đối với những vụ án hành chính đã được Tòa án
thụ lý trước ngày 01-7-2016, nhưng kể từ ngày 01-7-2016 mới xét xử theo thủ tục
sơ thẩm thì áp dụng quy định
của Luật này để giải quyết.
Như vậy, đối với những vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trước ngày
01-7-2016, nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử thì Tòa án vẫn phải tổ chức
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại
theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
15. Trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ
án ra xét xử, người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi kiện; người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập thì Tòa án có phải ban hành
quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu đã rút không?
Trường hợp này, Tòa án không ban hành
quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu đã rút mà Hội đồng xét xử nhận định về
việc người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi kiện; người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập và quyết định đình chỉ một phần yêu cầu
khởi kiện, đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập đó trong bản án.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về
tố tụng hành chính để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
Nơi nhận:
- Như kính gửi;
- Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC;
- Các đồng chí Thẩm phán TANDTC;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Thư ký Chánh án;
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
|
CHÁNH
ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|
Bài viết liên quan: