Về
trường hợp của bạn, Luật Hilap tư vấn như sau:
1.
Người
sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong mùa dịch COVID-19
Cơ
sở pháp lý: Bộ luật Lao động 2019;
Luật Phòng chống bệnh
truyền nhiễm 2007.
Tổ
chức Y tế Thế giới tuyên bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu vào thứ Tư
(11/03/2020), còn ở Việt Nam vào ngày 01/4/2020 Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định 447/QĐ-TTg công bố dịch COVID-19. Theo đó, đây là bệnh
truyền nhiễm nhóm A có nguy cơ ở mức độ đại dịch toàn cầu. Mà căn cứ khoản 1 Điều
3 Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm 2007 thì Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm
đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử
vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh.
Theo
điểm c khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động 2019 thì người sử dụng lao động có quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp “do thiên tai, hỏa
hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã
tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc”.
Vì
vậy, dịch bệnh COVID-19 hiện nay có thể được xem là “dịch bệnh nguy hiểm” và là
lý do để người sử dụng lao động có cơ sở thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động đối với người lao động.
Mặt
khác người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do dịch
bệnh sẽ không vi phạm pháp luật khi đủ các điều kiện sau:
- Thứ
nhất, người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải
giảm chỗ làm việc.
- Thứ
hai, căn cứ khoản 2 Điều 36 Bộ luật Lao động 2019 thì người sử dụng lao động phải
báo trước cho người lao động như sau: Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động
không xác định thời hạn; Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời
hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp
đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng.
Nhưng
để bảo đảm lợi ích của người lao động thì pháp luật cũng đưa ra quy định tại Điều
37 Bộ luật Lao động 2019 về những trường hợp mà người sử dụng lao động không được
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, gồm có:
- Trường
hợp 1: Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp đang điều trị,
điều dưỡng theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền nhưng trừ
trường hợp sau: Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục
đối với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã
điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định
thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng
lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời
hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
- Trường
hợp 2: Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và trường hợp nghỉ
khác được người sử dụng lao động đồng ý.
- Trường
hợp 3: Người lao động nữ mang thai; người lao động đang nghỉ thai sản hoặc nuôi
con dưới 12 tháng tuổi.
Do
đó, khi người sử dụng lao động có đủ các điều kiện trên và trong trường hợp nêu
trên thì có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không vi phạm pháp luật
2.
Thủ
tục đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động vì do dịch
bệnh nguy hiểm
Bước
1:
Căn cứ khoản 2 Điều 36; Điều 45 Bộ luật Lao động 2019 thì người sử dụng lao động
phải báo trước cho người lao động bằng văn bản về việc chấm dứt hợp đồng lao động
và phải trước:
- Ít
nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Ít
nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12
tháng đến 36 tháng;
- Ít
nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn
dưới 12 tháng.
Bước
2:
Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên
có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của
mỗi bên, và với trường hợp do dịch bệnh nguy hiểm có thể kéo dài nhưng không được
quá 30 ngày.
Bước
3:
Về trợ cấp thôi việc:
Theo
khoản 1 Điều 46 và khoản 10 Điều 34 Bộ luật Lao động 2019 thì với trường hợp người
sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do dịch bệnh nguy
hiểm (dịch COVID-19) thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi
việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở
lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, trừ trường hợp đủ
điều kiện hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và trường
hợp người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc
liên tục trở lên.
Về
trợ cấp thôi việc (xem chi tiết tại Đây)
Bước
4:
Người sử dụng lao động có trách nhiệm sau đây (theo khoản 3 Điều 48 Bộ luật Lao
động 2019):
- Hoàn
thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và
trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của
người lao động;
- Cung
cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu
người lao động có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động
trả.
Bích Hợp